Tép cảnh đẹp cho bể tép cảnh thủy sinh
Nhà nghiên cứu và nhiếp ảnh Chris Lukhaup đã làm một cuộc hành trình ghé thăm Trung Quốc và Hồng Kong để chụp hình, quay film làm phóng sự cũng như nghiêncứu tìm hiểu về môi trường sống, tập tính một số lọai tép cảnh hiện đang được bán trên thị trường
Đại đa số các lọai tép cảnh hiện nay đang được bán trên thị trường đều có thể tìm thấy tại phía nam Trung Quốc tuy nhiên rất ít người chơi biết rõ về tập tính, điều kiện sống của những lọai tép cảnh này. Đó cũng là lý do chính khiến tác giả và nhóm Crusta10 của Werner Klotz, Andreas Karge lên đường đi tìm hiểu về môi trường ngoài tự nhiên của các loại tép cảnh hoang dã.
Tép ong đỏ Red Bee Shrimp trong tự nhiên
Tép Ong (Bee), Bumblebee và tép Tiger shrimp có nguồn gốc ở Quảng Đông (Quảng Châu), Nam Trung Quốc có nơi sống tập trung nhiều ở các khe núi nhỏ ở thượng nguồn, ngoài ra có thể tìm thấy ở đây những cá thể khác tuy nhiên kém về màu sắc. Chúng chỉ được mô tả chung chung chưa được tìm hiểu nghiêncứu một cách khoa học.
Tép Ong ngày nay có tổ tiên ở con suối Greater-Hong Kong tuy nhiên rất đáng tiếc là chúng tôi không thể tìm thấy bằng chứng hay bất cứ thông tin gì về môi trường sống của chúng.
Được sự giúp đỡ của Ping Tang Yiu một người kinh doanh cá cảnh địa phương sẵn sàng làm hướng dẫn viên cũng như phiên dịch giúp chúng tôi, cùng với một số người thu gọm địa phương chúng tôi đã đi sâu vào bên trong các suối nhỏ nơi mà trước đây được giữ bí mật để thực hiện bài phóng sự này.
Tiếp đó chúng tôi bay tới Hong Kong thăm trang trại tép của ông Yang nơi đang tập hợp 8000 cá thể vừa được bắt đang tập trung chuẩn bị xuất sang Châu Âu và Nhật Bản. Chúng được thả chung trong một bể mà không hề được phân lọai, điều này sẽ khiến cho việc xác định nguồn gốc gặp nhiều Nuôi tép này khó hay không.
Ngày sau đó chúng tôi đã lái xe suốt 3h để đi tới một số con suối nhỏ thuộc thành phố Hà Nguyên nơi sở hữu hồ chứa nước khổng lồ Xingfeng Jiang. Nơi mà có loài meridonialis Caridina một lọai tép mới xuất hiện trên thị trường tép cảnh.
Cầu xin phù hộ của thần Rừng
Theo thông tin tin của dân địa phương, trước khi muốn bắt tép chúng tôi cần phải được sự đồng ý của thần núi vì thế chúng tôi phải mất 1h30 leo núi băng rừng và dâng cúng nến, rượu cũng như đốt pháo để được sự đồng ý của thần rừng cho phép khai thác.
Sau khi hành lễ chúng tôi lại mất thêm 30 phút băng rừng đến một con suối nhỏ và đây đó dưới làn nước thấp thóang những vạch đen trắng của tép meridonialis Caridina – Bumblebee. Các chú tép hoang dã này sống ở những vũng nước nông dọc sát bờ rất dạn dĩ hấu như không sợ sệt với sự xuất hiện của chúng tôi, điều này chứng tỏ môi trường sống của chúng không hề có kẻ thù ăn thịt như cá hay chim trời. Đây đó cũng lẫn lộn một số các thể tép không màu. chúng được phỏng đóan thuộc trong các nhóm như: C. serrata or C. cantonensis. và Bumblebees là C. meridionalis. (tép ong Huế của Việt Nam)
Sau khi quay film, chụp hình các cá thể chúng tôi tiến hành đo đạc tìm hiểu môi trường sống của chúng
– Thường sống ở các con suối cạn có chiều rộng khỏang ~2m (1m30″) có dòng chảy chậm
– Nhiệt độ nuôi tối ưu16 ° C/61 ° F.
– Không có phát hiện độ cứng nước cacbonat
– Độ dẫn điện chỉ là 12 μS,
– PH 5,8
– Trong suối có rất nhiều lá khô tuy nhiên không tìm thấy bất cứ lọai rêu hay cây thủy sinh nào. Ngựợc lại tại các bờ đá chúng tôi khám phá được nhiều lọai rêu và dương xỉ rất thú vị
=> Nét đặc trưng của một suối nước mềm (softwater).
Tiếp tục khám phá một số con suối khác cách khá xa chúng tôi tìm thấy những con tép thuộc họ tép lùn (dwarf shrimp) với những sọc đen và trắng trên cơ thể. Môi trường ven khu suối cây cối mọc rậm hơn chỗ cũ.
Môi trường nước như sau (khắc niệt hơn nơi cũ)
– Nhiệt độ nuôi tối ưutương tự chỗ cũ
– Nước hầu như không có trung hòa chất đệm axit (KH, ABC) trong các lần test nhỏ
– Độ dẫn điện chỉ là 7 μS, được đo bằng bút đo cầm tay
– PH 5,4
Có thể nhận định rằng môi trường sống của tép hoang dã tại đây là nước mưa tinh khiết.
Đi tiếp tới biên giới giữa Trung Quốc, Macao và Hồng Kông, chúng tôi thu thập được ở một dòng suối nhỏ, uốn lượn quanh các khối đá lớn trong một công viên giải trí được một lọai rất giống Neocaridina sp thường được bán từ Hong Kong. Các cá thể tép mái thường hay có một vằn rộng trên lưng màu xanh xám hơi nâu
tép bumberbee và black bee trong tự nhiên
Tuy nhiên, sau đó Werner và Andreas đã quan sát dưới kính hiển vi tại phòng thí niệm họ phát hiện ra rằng chúng thuộc về các nhóm liên quan tới C. serrata và C. cantonensis.
Ngạc nhiên hơn chúng tôi bắt gặp những cá thể rất đẹp với những khoang trắng đen phân biệt rất rõ, thậm chí còn có cả những con với vạch trắng và xanh. Chúng hoàn toàn khác với lọai mà chúng tôi bắt được những ngày trước tại hồ Xingfeng Jiang.
Sau đó chúng tôi xác định được chúng thuộc nhóm C. serrata chúng có họ hàng xa với các Tép ong mà chúng ta đang nuôi hiện nay. Chúng tôi phỏng đoán rằng những nhà lai tạo Đài Loan và Nhật Bản đã lai tạo tép ong đỏ hiện nay từ nguồn gen này. Điều này càng được chứng thực khi chúng tôi thấy các dân đánh bắt thường bắt và thả chung các lọai tép đánh bắt được chung trong một bể chứa mà không hề phân lọai.
Ở đây, dưới ánh mặt trời chúng tôi tìm thấy tép hoang dã ở các hốc đá granite. Tép tại khu vực này nhút nhát hơn chỗ cũ có lẽ do tại đây chúng tôi thấy xuất hiện cá, tép thường lẩn khuất và các khe đá granite, hang hốc và trên cát suối để tìm thức ăn. Chúng cũng ngụy trang để lẩn trốn.
Môi trường tại đây như sau:
– Các suối luôn nhận đủ ánh mặt trời,
– Không có rừng để bảo vệ bờ suối.
– Nhiệt độ nuôi tối ưunước 22 ° C/72 ° F cao hơn đáng kể so với các khe suối trong rừng.
– Tuy nhiên nước rất mềm độ dẫn điện là 32 μS
– Không thể phát hiện bất kỳ KH.
– PH 6.0
Môi trường sống thuận lợi
Từ kinh niệm có từ chuyến đi Trung Quốc, thì ở Hồng Kông việc tìm dường như dễ dàng hơn rất nhiều. Tép hoang dã thậm chí còn sống được trong suối công viên nhỏ trong thành phố.
Bốn loài hiện đang được biết đến từ đó: C. serrata, C. trifasciata, C. cantonensis và C. apodosis – và tất cả đều thuộc nhóm C. serrata.
Khi phong trào nuôi Tép Cảnh bùng nổ, Tép Ong được đặt tên là Caridina serrata như nó đã được biết mà sau đó không biết rằng chúng có thể thuộc về một loài hoàn toàn mới. Loài C. serrata thật sự (ở trên) có đặc trưng là màu xám nhạt hoặc nâu đỏ, các vạch màu không đều và tối hơn những vạch màu đen và trắng thấy ở Tép Ong.
Dù gì thì những con tép này cũng đã xuất hiện trong những bể nuôi. Chúng là những loài đặc hữu trên đảo Hồng Kông, nơi sống thường ở suối nhỏ chảy ra từ núi có nước quanh năm. Bạn có thể tìm thấy số lượng lớn, rất thường thường xuyên ở nơi rất nhiều lá khô rụng xuống.
– Đặc trưng ở đây là một con suối nhỏ tốc độ dòng chảy chậm và có độ dẫn điện thấp khoảng 80 μS
– Nhiệt độ nuôi tối ưunước trong các suối này khá mát ở 18-19 ° C/64-66 ° F.
– Độ pH luôn dưới 6.
Ở đây chúng tôi cũng tìm thấy loài ốc vặn ngược Brotia hainanensis (ở trên) là một loài ốc phổ biến ở Hồng Kông, và một loài cua cho đến nay vẫn chưa được xác định.
Tại các cửa sông ở phía đông của New Territories (một phần lãnh thổ của Hồng Kông trên bờ biển phía nam của Trung Quốc đại lục mà nằm ở phía bắc của bán đảo Kowloon và bao gồm các đảo Lantau, Tsing Yi, và Lamma.), chúng tôi dừng lại trước một con sông nhỏ trong vùng mà có ít nước triều lên vào thời điểm này trong ngày. Chúng tôi bắt gặp một loài tép Caridina dưới một số loại đá mà khoa học đã đặt tên cho C. elongopoda. Tuy nhiên, trong đó cho thấy sự khác biệt rõ ràng so với loài C. elongopoda từ Malaysia. Theo Klotz và Karge, cần có một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng hơn để có thể để đặt lại đúng tên khoa học cho những biến thể trong loài này.
Chúng tôi cũng cũng thử bắt nhiều tôm càng xanh và một loài tôm Palaemon. Chúng tôi cũng thu thập ốc nerite thuộc chi Clithon trên những tảng đá phủ đầy tảo. Những con ốc này có màu sắc và thường xuyên đẻ rất nhiều trứng trên những tảng đá.
– Môi trường sống trong các khu vực cửa sông này, cách khoảng 500m / 1,640 ‘ từ cửa sông,
– Hơi lợ với độ dẫn điện của nước 1.120 μS ,
– Nhiệt độ nuôi tối ưu19 ° C/66 ° F
– Độ pH có tính axit nhẹ 6,8.
Sau khi những con suối này chảy đến khu vực rừng núi thì các điều kiện thay đổi. Nước đã được rất nhiều đục, tốc độ dòng chảy giảm và có khối lượng lớn của lá mục ở phía dưới đáy
Ở đây chúng tôi tìm thấy Caridina cantonensis, những loài phổ biến nhất trên đảo Hồng Kông. Một số có màu vàng đỏ, một số có màu ánh xanh trên cơ thể cùng với các chấm đỏ nâu. Nếu leo lên cao hơn, ở trên các dốc của suối cũng có thể tìm thấy một số ít tép ở trên này. Chúng trông rất giống tép đuôi đỏ (Red tail Shrimp) đã được biết đến trong giới chơi.
Những con tép hoang dã này chia sẻ môi trường sống của chúng với những con ốc vặn Hainanensis Brotia và loài tôm Macrobrachium Longarm(càng dài) chưa được xác định. Cũng có cá trong khu vực này, trong đó có một loài cá trạch (Loach) đã được xác định là Liniparhomaloptera disparis và cá bống nhỏ với một vây lưng màu cam sáng từ chi Rhinogobius. Nước ớ đây tăng lên khoảng 2 ° C nhưng mát hơn nhiều so với khu vực nước lợ, độ pH là 6,4, và không đo thấy độ KH.
Ngày hôm sau, chúng tôi đã đi đến phía đông của New Territories nơi Tang muốn cho chúng tôi thấy một con suối, nơi ông sử dụng để khai thác tép và cũng là nơi loài tép Caridina cũng như một loài tôm càng xanh được tìm thấy ở đây.
Tay làm thức ăn
Khi chúng tôi đến suối, hành vi của những con tôm càng dài (longarm) thật ngạc nhiên. Chúng không hề nhút nhát và nếu bạn đưa tay của bạn xuống nước, những con tôm này theo nĩa đen sẽ bơi về phía đó để xem có phải là thức ăn không. Chúng thuộc loài tôm càng xanh Hainanense.
Có vẻ như rất ít thức ăn trong suối, có được lời giải thích khác cho hành vi bạo dạn này. Hơn nữa, chúng tôi không thể phát hiện bất kỳ loại cá lớn hơn để mà có thể gây nguy hiểm cho chúng.
Dân số loài tép lùn rất ít, có lẽ longarm đã xơi tái chúng mất rồi.
Chúng tôi đi dọc theo các con suối, chạy qua khu rừng nhiệt đới với hệ thực vật phong phú với phong cảnh rộng lớn phía thượng nguồn. Trên này có một cao nguyên nhỏ, nơi suối đã đục xuyên vào núi đá, chúng tôi tìm thấy một số loài cá nhỏ xuất hiện trong một vũng lớn và có nhiều tép Caridina cantonensis trong những cái vũng đầy lá rụng.
Chúng tôi tìm thấy điều đáng ngạc nhiên rằng giống tép lùn không ở trong những vũng với tảo và rêu, nhưng lại ở những nơi có đáy đá và rất nhiều mảnh vụn. Các thông số cũng gần tương tự với những nơi được qua trước đó:
– Nhiệt độ nuôi tối ưu: mát khoảng 18-19 ° C/64-66 ° F,
– Độ dẫn điện khoảng 45-48 μS,
– và giá trị pH tương ứng khoảng6,0-6,4.
Một bí mật nhỏ mà không hề nhỏ
Chúng tôi có thể đã thực sự nhìn thấy môi trường sống ban đầu của loài tép Ong ? Chén Thánh bí mật là đây?
Ông Tang đã sắp xếp việc này trong ngày cuối cùng của chuyến đi cho chúng tôi và cuối cùng nó đã chứng minh rằng sẽ không thể tìm thấy nếu như không tiết lộ địa điểm bí mật quan trọng này với những người lạ khác vì họ có thể sẽ đầu độc, ô nhiễm toàn bộ con suối – như họ đã làm trước đó.
Để bảo vệ lợi ích của chính họ và những loài tép hoang dã, các nhà sưu tập chuyên niệp của Hồng Kông dường như bắt buộc phải ngăn chặn những điều đó.
Nguồn: tepcanh.com